Hoạt động sân khấu trước 1946 Thế Lữ

Bước khởi đầu

Thế Lữ làm quen với sân khấu kịch nói từ năm 1923, khi lần đầu tiên được xem vở Tây Nam đắc bằng của Nguyễn Đình Kao, vở kịch nói chuyển thể từ tuồng cổ[28]. Đến năm 1928, khi đang học năm thứ 3 Thành chung, nhân dịp Hội Trí tri (Hải Phòng) tổ chức quyên tiền xây dựng sân bóng, Thế Lữ đã đóng vai lão Quý trong vở Lọ vàng - do Mai Phương phóng tác từ Cái nồi (La marmite) của Plautus - dưới sự hướng dẫn của Hoàng Ngọc Phách và được Vi Huyền Đắc, Nguyễn Hữu Kim hết lời khen ngợi[29]. Ở Hà Nội, ông được xem một số buổi diễn của ban kịch Pháp "Les comédiens français", hay nhóm kịch của Claude Bourain. Đến năm 1932, ông bắt đầu tham gia phê bình, góp ý cho một số vở diễn, đồng thời viết một vở bằng tiếng Pháp mang tên Le cauchemar d'un étudiant (Cơn ác mộng của một sinh viên – đã được Năm Châu chuyển thể thành cải lương)[30]. Ông còn tìm đọc nhiều sách báo viết về nghệ thuật sân khấu bằng tiếng Pháp. Thế Lữ say mê sân khấu kịch Pháp, muốn lấy đây làm đích để vươn lên cho sân khấu Việt Nam.[30]

Những năm đầu gia nhập Tự Lực văn đoàn, Thế Lữ vẫn quan tâm đến nghệ thuật kịch nói. Năm 1935, ông cùng với Lan Sơn, Lê Đại Thanh thành lập một nhóm kịch ở Hải Phòng, đương thời được gọi là nhóm kịch Thế Lữ, chủ yếu diễn các vở của Vi Huyền Đắc[31]. Thời kỳ này, dù sáng tác kịch nói Việt Nam đã ra đời hơn chục năm (từ năm 1921 với Chén thuốc độc của Vũ Đình Long), thì hoạt động biểu diễn kịch nói lúc này vẫn còn mang tính nghiệp dư[32], các buổi diễn được tổ chức đều phải dựa vào cớ "vì việc nghĩa", diễn kịch để làm từ thiện, và cũng vì thế mà chất lượng nghệ thuật không được cả người diễn lẫn khán giả chú trọng[33][34]. Thế Lữ chủ trương chống lối diễn kịch trên, ông kêu gọi trên báo Ngày nay số 116:

Cần phải có những tác phẩm mới khác nữa của những kịch sĩ mới, những bài học có giá trị để làm mất hẳn cái đội "kịch sĩ ô hợp", chưa hiểu thế nào là nghệ thuật mà đã đi tìm vinh hạnh trên kịch đài... Đó là những con người "nhất thời chế biến", họ lại không chịu học hỏi suy xét và coi sự luyện tập, sự diễn đạt rẻ rúng như một trò chơi...

...Sân khấu phải là một mỹ đài để cho người nghệ sĩ thi thố tài hoa. Những tài tử phải là những con cưng của toàn thể khán giả. Đi xem kịch không phải như trước chỉ để nghe vở mà còn xem cả nghệ thuật của người sắm vai.[35]

Nhóm kịch Tinh hoa

Năm 1936, một nhóm các văn nghệ sĩ bao gồm Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc, Phạm Văn Hanh, Trần Bình Lộc, Nguyễn Đỗ Cung, Vũ Đình Liên... thành lập một ban kịch lấy tên Tinh hoa, với mục đích "khởi sắc kịch Việt Nam khả dĩ không thua kém kịch trường Pháp". Nhóm kịch có báo Tinh hoa làm cơ quan ngôn luận. Đây cũng là lần đầu tiên ở Việt Nam, tập hợp đông đảo các văn, nghệ, kịch, họa sĩ, tổ chức quy củ nên một ban kịch nghiệp dư với mục đích phụng sự nghệ thuật[35][36], "vì sân khấu" chứ không phải vì bất cứ công việc từ thiện nào[29]. Thế Lữ là đạo diễn, thời đấy gọi là "nhà dàn cảnh", kiêm diễn viên và người tổ chức của ban kịch. Ngày 13 tháng 3 năm 1937, tại Nhà hát lớn Hà Nội, ban kịch Tinh hoa công diễn với hai vở kịch: Sau cuộc khiêu vũ (một hồi) và Ghen (ba hồi), đều là sáng tác của Đoàn Phú Tứ. Đạo diễn chương trình là Thế Lữ, các diễn viên gồm Thế Lữ, Vũ Đình Hòe, Đoàn Phú Tứ, Khánh Vân, Minh Trâm, Lê Đình Quy[37]. Đêm kịch diễn ra thành công, và các diễn viên cũng gây dấu ấn với khán giả bằng diễn xuất của mình[38].

Vở kịch Ông Ký Cóp do Thế Lữ đạo diễn quảng cáo trên báo Ngày nay (1938)

Được một thời gian, báo Tinh hoa đình bản và ban kịch cũng ngừng hoạt động. Thế Lữ, với mong muốn tiếp tục hoạt động sân khấu, đã quay trở về Hải Phòng, tiếp tục gây dựng nhóm kịch Thế Lữ. Bên cạnh các thành viên cũ, còn có thêm các diễn viên mới như Lê Thương, Linh Tâm, Huyền Thanh, Thanh Hương, Lan Bình, Song Kim, Minh Trâm...; Tô Ngọc Vân, Lê Thị Lựu làm họa sĩ trang trí[36][39]. Nhóm kịch đã cho ra mắt một số vở diễn tại Nhà hát lớn Hải Phòng, bao gồm Kim tiền của Vi Huyền Đắc (tháng 2 năm 1938), chương trình kịch ngắn gồm bốn vở Những bức thư tình, Mơ hoa, Gái không chồng, Kiều Liên của Đoàn Phú Tứ, chương trình hai vở Sau cuộc khiêu vũ (Đoàn Phú Tứ) và Ông Ký Cóp (Vi Huyền Đắc). Thế Lữ ngoài công việc đạo diễn còn đảm nhận vai chính trong một số vở, như Đường trong Gái không chồng, Minh trong Sau cuộc khiêu vũ, ông Ký Cóp trong Ông Ký Cóp[40].

Sau những đêm diễn ở Hải Phòng, Thế Lữ mong muốn được đem nhóm kịch lên Hà Nội. Một may mắn đến với cả nhóm là lời mời của tờ báo Tin tức, cơ quan ngôn luận của Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Được Nguyên Hồng, Như Phong gợi ý, tờ báo muốn mời nhóm kịch Thế Lữ lên diễn tại Nhà hát lớn Hà Nội để làm công tác vận động quần chúng[41]. Với sự giúp đỡ trực tiếp của Đào Duy Kỳ ở Tin tức, nhóm đã dàn dựng và công diễn hai vở Ông Ký Cóp (19 tháng 11 năm 1938) và Lọ vàng (13 tháng 5 năm 1939)[42]. Hai đêm diễn đều gây tiếng vang lớn đổi với khán giả Hà Nội và nhận được nhiều bài tường thuật, bình luận trên các báo, đặc biệt là các bài phê bình tích cực của Như Phong, Nguyễn Tuân, Chu Ngọc, Thạch Lam[41]. Trong vở hài kịch Lọ vàng, vở diễn mà Thế Lữ đã tham gia khi còn là học sinh, ông lần nữa đóng vai lão Quý, tạo dựng thành công hình ảnh một lão Quý "bần tiện, ích kỷ, đầy dục vọng xấu xa". Cuối năm 1938, Thế Lữ kết hôn với Song Kim, một diễn viên trong nhóm kịch[43].

Thời gian này, bên cạnh công việc tại tòa soạn báo Ngày nay, Thế Lữ chủ yếu ở ngôi nhà trên Ngã Tư Sở, được ông thuê làm trụ sở cho nhóm kịch. Hoạt động kịch của Thế Lữ gặp phải sự phản đối của Nhất LinhHoàng Đạo trong Tự Lực văn đoàn, bởi họ không muốn Thế Lữ vì thế mà giảm sút hoạt động làm báo với họ. Ngược lại, Khái Hưng, Thạch Lam và Tú Mỡ lại ủng hộ nhóm kịch. Khái Hưng viết một số vở kịch cho nhóm, Thạch Lam viết nhiều bài phê bình để khích lệ. Về Tú Mỡ, vốn say mê nghệ thuật sân khấu, cũng hứa tham gia nhóm kịch khi nào Thế Lữ cần[44].

Nửa cuối năm 1939, nhóm kịch của Thế Lữ hoạt động trầm lặng, chỉ đi diễn ở một số tỉnh lẻ. Ngoài Lọ vàng, trong năm này nhóm chỉ dựng vở Đoạn tuyệt (do Nguyễn Xuân Đào soạn từ tiểu thuyết của Nhất Linh). Vở này lần đầu ra mắt vào tháng 3 năm 1939, có sự tham gia lần đầu của Tú Mỡ với nhiều sáng tạo trong vai Thân, anh chồng giàu có nhưng đần độn, nhạt nhẽo. Nhìn chung, sau những buổi trình diễn, nhóm kịch Thế Lữ tỏ ra có uy tín vững chắc hơn ban kịch Tinh hoa trước đây, bởi kịch bản và trình độ nghệ thuật chắc chắn trong cách diễn, cách dàn dựng của Thế Lữ và các nghệ sĩ của nhóm[42].

Ban kịch Thế Lữ

Ý định thành lập một ban kịch chính thức đã được Thế Lữ ấp ủ từ lâu. Khi Thế chiến II nổ ra, chính quyền thực dân Pháp tăng cường kiểm duyệt, báo Tin tức phải đóng cửa, hy vọng của Thế Lữ về việc tái hợp tác với nhóm Đào Duy Kỳ cũng chấm dứt. Nhóm kịch Thế Lữ bị theo dõi, hoạt động càng lúc càng khó khăn. Căn nhà ở Ngã Tư Sở bị từ chối không cho thuê tiếp, Thế Lữ – Song Kim được Thạch Lam rủ về ở chung trong ngôi nhà tranh bên Hồ Tây[45]. Một thời gian sau, Thạch Lam qua đời vì bệnh phổi, sức khỏe Thế Lữ cũng yếu đi sau đó. Vợ chồng ông lại được Tú Mỡ giúp thuê hộ một nơi ở mới trên đường Láng, gần ngôi nhà của gia đình Tú Mỡ[46]. Lúc này, báo Ngày nay đã đình bản, gia đình Thế Lữ lâm vào cảnh khó khăn. Song Kim nuôi thỏ để cải thiện kinh tế, còn Thế Lữ dành thời gian rỗi rãi để học thêm chữ Hán[45].

Bao nhiêu cuộc họp từ nhỏ đến lớn, ròng rã bốn năm tháng trời ở nhà "gió bốn phương" là bấy nhiêu nhiệt tình của những người xây mộng lập thành ban kịch. Cái mộng ấy cuối cùng cũng thành sự thực: Ban kịch Thế Lữ ra đời! Mọi người nhất trí đặt cho cái tên như vậy, vì lúc ấy tên tuổi nhà thơ Thế Lữ đang được mọi người yêu mến, sẽ giúp cho ban kịch thêm phần tín nhiệm. Và anh em gọi đùa là "Hào chiêu lực".

Song Kim, hồi ký Những chặng đường sân khấu[45]

Ngôi nhà của ông ở đường Láng được bạn bè gọi một cách hoa mỹ là "biệt thự gió bốn phương" - dần trở thành nơi quy tụ nhiều người bạn yêu nghệ thuật. Đầu tiên là Tú Mỡ, Mai Lâm, Huyền Kiêu, rồi Phạm Văn Khoa, Trần Đình Thọ, Phạm Văn Đôn, Trịnh Như Lương, các nhạc sĩ như Nguyễn Xuân Khoát, Lưu Hữu Phước, Lê Thương, cùng Văn Chung – Kim Bình, Kỳ Ngung – Giáng Kiều, Phạm Hồng, Việt Hồng, Thái Bá Cơ, Nguyễn Văn Tỵ..., sau cùng Nguyễn Tuân cũng đến tham gia. Tại căn nhà "gió bốn phương", Thế Lữ cùng những người bạn yêu kịch cùng chí hướng muốn thành lập một ban kịch chuyên nghiệp, có tổ chức, kinh doanh, quản lý quy củ hẳn hoi.

Ban kịch Thế Lữ ra mắt vào năm 1942 với lượng kịch mục phong phú của các tác giả Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Mai Phương, Khái Hưng, Bùi Huy Phồn (Đồ Phồn)... Đội ngũ diễn viên của ban dồi dào, đông đảo, có khả năng đảm trách nhiều loại vai. Vốn kinh tế của ban kịch do năm thành viên Phạm Văn Khoa, Phạm Văn Đôn, Trịnh Như Lương, Trần Đình Thọ cùng Thế Lữ đóng góp, mỗi người đóng 500 đồng, trở thành "người sáng lập chủ yếu". Để có số tiền này, Thế Lữ đã đi cầm miếng đất mẹ ông cho và về sau không bao giờ chuộc lại[47]. Thế Lữ là đạo diễn kiêm diễn viên của đoàn, họa sĩ trang trí có Phạm Văn Đôn, Trần Đình Thọ, Nguyễn Thị Kim, riêng Trịnh Như Lương đóng vai trò thủ quỹ và Phạm Văn Khoa làm giao dịch kiêm kỹ thuật hậu đài[43]. Đặc biệt, ban kịch còn đặt ra quy định về chế độ bản quyền, thù lao cho diễn viên và các thành viên khác trong đoàn, đưa kịch nói lần đầu trở thành một nghề chuyên nghiệp[45].

Vở diễn đầu tiên ra mắt mùa kịch 1942-1943 là Tục lụy[b], vở kịch thơ ba màn do Thế Lữ chuyển thể từ vở kịch bằng văn xuôi của Khái Hưng, được Lưu Hữu Phước phổ nhạc và dàn nhạc do Nguyễn Xuân Khoát chỉ huy[43]. Bên cạnh các vở cũ như Kim tiền, Ông Ký Cóp, Lọ vàng... được dàn dựng lại, đoàn còn dựng thêm các vở mới như Khóc lên tiếng cười, Đồng bệnh, Kinh Kha, Lệ Chi Viên... Các vở diễn được thực hiện công phu, kỹ càng từ diễn xuất cho tới trang trí, hóa trang, "đã làm cho mùa diễn thực sự thành công, đem lại một không khí mới mẻ cho nghệ thuật sân khấu lúc bấy giờ"[48].

Hoạt động chưa được bao lâu, ban kịch Thế Lữ đã gặp khó khăn từ phía chính quyền. Cơ quan kiểm duyệt I.P.P. tăng cường giám sát khắt khe đối với ban kịch[49]. Vở Kinh Kha, lấy đề tài từ chuyện nhà Tần xâm lược nước Yên, bị cấm diễn sau khi đã ra mắt tại Nhà hát lớn; vở Kim tiền thay thế cũng bị yêu cầu cắt bỏ phần cuối do có đoạn công nhân mỏ đấu tranh chống lại chủ. Để diễn vở này, đoàn kịch phải thay thế đoạn trên bằng chuyện lục đục trong gia đình nhà chủ mỏ[43]. Mối quan hệ của ban kịch với chính quyền thêm căng thẳng, khi Thế Lữ và các thành viên từ chối yêu cầu của nhà cầm quyền: muốn ban kịch diễn vở Évêque d'Adran (Giám mục Bá Đa Lộc), cũng như treo ảnh Pétain trên sân khấu. Gặp sự cấm đoán, cộng thêm điều kiện vật chất nhiều khó khăn, ban kịch Thế Lữ lặng lẽ giải tán một thời gian sau[49].

Dù chỉ hoạt động trong thời gian không dài, nhưng ban kịch Thế Lữ vẫn được xem là đơn vị kịch nói chuyên nghiệp, có tổ chức và quy mô đầu tiên của Việt Nam, và "chưa có một đơn vị sân khấu nào lại hội tụ được đông đảo văn nhân nghệ sĩ có tên tuổi và trình độ cao như thế"[50].

Đoàn kịch Anh Vũ

Bài chi tiết: Đoàn kịch Anh Vũ

Sau khi ban kịch Thế Lữ giải tán, vợ chồng Thế Lữ về ở trại Doi thuộc làng Sét. Những bạn bè cộng tác cũ vẫn có mặt ở trại, với hy vọng được quay trở lại sân khấu[43]. Thời gian này, Thế Lữ viết vở kịch thơ năm hồi Dương Quý Phi, dựa trên vở kịch nói Trường hận (Éternels regrets) của Vi Huyền Đắc[51]. Cuối năm 1943, Võ Đức Diên, một kiến trúc sư giàu có, tìm đến gặp Thế Lữ, muốn lập ban kịch và mời Thế Lữ tham gia. Hai bên đồng ý thỏa thuận: Võ Đức Diên mua lại ban kịch Thế Lữ, chịu trách nhiệm về phần kinh tế, đồng thời mời các cộng tác viên của ban kịch Thế Lữ cũ, cho Thế Lữ nắm quyền chỉ đạo hoàn toàn về nghệ thuật. Ban kịch mới, xây dựng trên cơ sở của ban Thế Lữ, lấy tên là Đoàn kịch Anh Vũ[52].

Nhà hát lớn Hà Nội, nơi thường ra mắt các vở diễn của Thế Lữ và đoàn kịch.

Rời trại Doi, Thế Lữ - Song Kim lên ở ngôi nhà ở bãi Nghĩa Dũng, là trụ sở mới của đoàn kịch. Bên cạnh các thành viên cũ, đoàn kịch có thêm sự tham gia của Đỗ Nhuận, Bùi Công Kỳ, các thành viên ít tuổi của ban cải lương Đồng Ấu Tây Phi như Thọ Sơn, Giáng Hương, Thúy Ái, Thúy Nga, Thái An..., đặc biệt là ba nghệ sĩ cải lương nổi tiếng: vợ chồng Sỹ Tiến - Khánh Hợi cùng nghệ sĩ Vân Trung. Được Thế Lữ thuyết phục, các nghệ sĩ cải lương cuối cùng cũng sáp nhập vào đoàn kịch, tham gia cả những vai kịch nói[53]. Kịch thơ Dương Quý Phi mở đầu mùa kịch, chia làm hai vở Trầm Hương Đình và Mã Ngôi Pha, có sự tham gia của Sỹ Tiến trong vai An Lộc Sơn, Thu Hà trong vai Dương Quý Phi được khán giả yêu thích. Thế Lữ đóng vai Đường Minh Hoàng, với diễn xuất khiến người xem thấy "rung động trong lòng, tiếc nuối mối tình dang dở và thương nhân vật phải ôm hận nghìn đời"[54].

Thời gian đoàn kịch ở Hà Nội, các đêm ra mắt vở mới luôn được tổ chức ở Nhà hát lớn, sau đó đem về diễn cố định tại rạp Hiệp Thành[55]. Đến đầu năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, hoạt động sân khấu ở Hà Nội trở nên khó khăn. Để tránh sự chú ý của quân Nhật, Thế Lữ và Đoàn Anh Vũ quyết định đi lưu diễn ở các tỉnh. Hành trình dự định của đoàn là từ Hà Nội đi dọc Quốc lộ 1, vào Sài Gòn, sang Campuchia rồi mới trở ra Bắc[56]. Trong thời gian lưu diễn từ Nam Định tới Thanh Hóa, đoàn kịch cùng sáng tác chung một vở, lấy tên là Đời nghệ sĩ, kể về những nghệ sĩ sân khấu lang thang chịu sự ngược đãi của các chủ gánh hát, bỏ đi lập nên một đoàn riêng, phục vụ cho những ý tưởng nghệ thuật cao đẹp. Những diễn viên của Anh Vũ thể hiện những vai giống như chính mình ngoài đời, đặc biệt có sự tham gia diễn xuất của cả các nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Bùi Công Kỳ và Nguyễn Xuân Khoát[57].

Cách mạng tháng Tám

Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách mạng tháng 8 nổ ra khi đoàn đang diễn tại thị xã Thanh Hóa. Ngay hôm đấy, các nghệ sĩ dàn dựng một chương trình đặc biệt đón chào sự kiện trọng đại này. Vở Đời nghệ sĩ được bổ sung thêm cảnh cuối: những nghệ sĩ lang thang vui sướng đón chào cách mạng. Đoàn còn dựng gấp màn hoạt cảnh Những trang oanh liệt, phác họa lại lịch sử Việt Nam với những anh hùng dân tộc, kết thúc là hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng cùng bài hát Tiến quân ca[58].

Trước khi từ Thanh Hóa vào Vinh, đoàn Anh Vũ dựng vở kịch lịch sử có nội dung chống Pháp, Đề Thám của Lưu Quang Thuận. Đến Vinh, Thế Lữ lại viết và dựng các vở kịch ngắn theo yêu cầu của thành phố nhân dịp Tuần lễ vàng, bao gồm: Phan Đình Phùng tiếp sứ, Ông đồ Giáp - Bagin, Người loong toong trong sở mật thám, mở đầu cho hàng chục vở kịch ứng biến ông viết trên đường lưu diễn về sau[43]. Những kịch bản "sáng tác kịp thời" này được dàn dựng và biểu diễn trong thời gian ngắn, phục vụ theo yêu cầu của từng địa phương. Đáng chú ý có vở Người mù, được Thế Lữ viết ở Huế, với nhân vật chính là một ông lão mù do chính ông đóng, một vai diễn mà Thế Lữ đã mong ước từ lâu. Vở Cụ đạo, sư ông, được viết theo gợi ý của Thanh Tịnh, được diễn nhiều lần bởi đoàn Anh Vũ và trong cả những năm kháng chiến ở Việt Bắc sau này[43]. Tới Quy Nhơn, đoàn kịch phải quay ngược trở lại do tình hình chiến sự miền Nam, không thể đi tiếp hành trình như đã định. Tại đây, đoàn đã gặp gỡ các nghệ nhân tuồng Nguyễn Nho Túy, Ngô Thị Liễu và Minh Đức, cùng tổ chức nên một đêm diễn đặc biệt, kết hợp giữa nghệ thuật kịch nói và tuồng[59].

Quay trở ra Bắc, đoàn kịch dừng lại diễn ở những địa điểm đã đi qua. Nhiều thành viên rời bỏ đoàn trên đường đi, một số thành viên xây dựng gia đình, một số tham gia đoàn quân Nam tiến chống Pháp. Đoàn kịch Anh Vũ dần tự giải tán. Tháng 4 năm 1946, Thế Lữ – Song Kim về đến Hà Nội[60].